Posts Tagged ‘may’

Giải phóng RAM để máy chạy nhanh

Tháng Mười Một 22, 2008

Máy vi tính thời nay cần nhiều RAM để có thể hoạt động hiệu quả hơn, đặc biệt là nếu nó đang chạy Windows Vista 32-bit.

Một hệ thống với 2GB bộ nhớ RAM vẫn có thể chạy ì ạch nếu nó được cấu hình không tốt và bạn phải nâng cấp lên 4GB RAM để rồi phát hiện ra PC của mình chỉ có thể truy cập khoảng 3GB. Vậy dung lượng RAM đã đi đâu, và có cách nào giúp bạn có thể lấy lại không? Cài đặt Windows Vista 64-bit có thể tạo nên sự khác biệt thực sự nếu như phần cứng của bạn đủ đáp ứng. Nhưng nếu điều đó quá tầm với bạn thì vẫn còn có các cách khác để khắc phục. Sau đây là những điều bạn cần biết.

1. Kiểm soát những chương trình lúc khởi động:

Con đường dẫn tới việc làm chủ bộ nhớ máy tính bắt đầu bằng việc nắm quyền kiểm soát nhiều hơn đối với những chương trình bạn đang chạy.

Vào Start > All Programs và gỡ bỏ bất kỳ phần mềm nào bạn không sử dụng, sau đó khởi chạy MSCONFIG.EXE và nhấp vào thẻ Startup để xem những gì được cấu hình khởi động cùng Windows. Nếu bạn thấy những chương trình không cần thiết, bạn có thể gỡ bỏ hoặc thay đổi các thiết lập của nó để chương trình ấy không tự khởi động khi bạn đăng nhập vào Windows.

Ứng dụng Add-ons cho các trình duyệt, Microsoft Office và những thứ tương tự cũng có thể tiêu thụ lượng RAM lớn đến không ngờ. Kiểm tra các add-ons trên trình duyệt hiện tại của bạn (vào Tools > Manage Add-ons trong IE, Tools > Add-ons trong Firefox) và vô hiệu hóa (hoặc gỡ bỏ cài đặt) bất kỳ cái nào mà bạn không sử dụng đến.

2. Vô hiệu hóa những dịch vụ không mong muốn:

Để tăng tốc cho Windows một số người khuyên bạn nên vô hiệu hoá dịch vụ Windows không cần thiết. Nhưng trong hầu hết các trường hợp thì cách này không hiệu quả lắm, ngoại trừ Windows Defender, nó chiếm khoảng 20MB (hoặc nhiều hơn nếu bạn để nó chạy nền). Nếu bạn đã có một công cụ Antispyware hoặc Antivirus khác thì nên tắt Defender (trong Vista, chạy Windows Defender, nhấp chuột vào Tools > Options, cuộn xuống và bỏ chọn ‘Use Windows Defender’)

Nếu bạn quyết định thử vô hiệu hoá các dịch vụ khác, bấm vào Start khởi chạy services.msc, di chuyển xuống trong danh sách để xem những gì có sẵn. Trên máy tính thử nghiệm cài đặt Windows Vista Ultimate, chúng tôi có thể vô hiệu hoá một cách an toàn những dịch vụ sau bằng cách click đúp chuột vào và thiết lập Startup type thành Disabled.

Apple Mobile Device: đi kèm iTunes, không cần thiết nếu như bạn không có một thiết bị của Apple để kết nối.

Distributed Link Tracking Client: duy trì các liên kết giữa các tập tin trên một mạng lưới tên miền, không phải là một tính năng mà chúng tôi sử dụng.

Nero BackItUp Scheduler 3: cung cấp với Nero Burning ROM, nhưng không cần thiết nếu bạn không sử dụng các công cụ back-up.

Offline Files: hữu ích nếu bạn đồng bộ hóa các tập tin giữa các máy tính, nhưng chúng tôi không cần.

Tablet PC Input Service: Đây không phải là một Tablet PC (máy tính bảng).

Quá trình này có lẽ giúp phục hồi 10MB bộ nhớ RAM. Bạn có thể đạt được nhiều hơn nếu bạn lược bỏ thêm nhiều dịch vụ, nhưng bạn cũng gặp những sự cố nguy hiểm nếu bạn loại bỏ những thứ gì đó mà bạn thực sự cần.

3. Giảm bớt yêu cầu phần cứng:

Nếu PC của bạn có 4GB bộ nhớ thì rất có thể bạn sẽ thấy rằng chỉ có thể truy cập từ 3 đến 3.5GB RAM, bởi vì BIOS của bạn đã cấp phần địa chỉ trống còn lại cho card màn hình, card mạng, và những phần cứng khác.

Để xem những gì được cấp cho phần cứng trên PC của bạn, khởi chạy Device Manager (bấm vào Start và nhập devmgmt.msc), bấm View > Resources by type và mở rộng bộ nhớ. Phần tài nguyên thực sự bị cắt mất hầu như chắc chắn là do card màn hình của bạn. Nếu bạn có một chiếc card đồ họa 512MB, thì có thể nói rằng nó sẽ chiếm lấy 512MB (và nhiều hơn nữa, trên thực tế) ô nhớ của bạn. Điều này có lẽ sẽ không phải là vấn đề nếu bạn có 2GB RAM mà ở đó không có phần bộ nhớ nào bị khóa, nhưng nếu bạn có 4GB thì nó sẽ ngăn cản bạn sử dụng tối đa bộ nhớ.

Bạn không thể giải quyết vấn đề này một cách hoàn toàn, nhưng cũng có những cách để giảm tác động của nó. Ví dụ, nếu bạn có cài đặt một card mở rộng mà bạn không còn cần nữa, hãy tháo gỡ nó. Nếu bạn không tận dụng hết card màn hình thì hãy xem xét hạ nó xuống với một mức RAM tối thiểu (128MB là đủ để chạy Vista). Kiểm tra BIOS để tắt các tính năng mà bạn không cần. Có một trình đơn thường được gọi là ‘Onboard Device Configuration’ hoặc ‘Integrated Periphrals’, nơi bạn có thể vô hiệu hoá card đồ họa on-board, card âm thanh tích hợp, network adapters hay kênh IDE chưa sử dụng…v.v.. Dùng cách này để tắt các phần cứng dư thừa, BIOS sẽ không phân bổ bộ nhớ cho chúng và phần dung lượng ấy sẽ dành cho bạn.

4. Tắt những tính năng không cần thiết:

Đừng kích hoạt quá nhiều tính năng Windows, trừ khi bạn thực sự cần nó. Ví dụ để tăng tốc cho Windows Vista, tắt các giao diện Aero nếu bạn có thể làm việc mà không có nó (click chuột phải vào màn hình, chọn Personalize > Theme và chọn Windows Classic). Máy tính của bạn sẽ nhìn không đẹp lắm, nhưng bù lại bạn sẽ tiết kiệm gần 40MB bộ nhớ RAM. Nếu việc xem biểu tượng mạng nhấp nháy khi chuyển giao dữ liệu là không cần thiết, click chuột phải vào biểu tượng, chọn Turn Off Activity Animation và bạn sẽ tiết kiệm được 1 đến 5Mb bộ nhớ RAM.

5. Chạy Explorer hiệu quả:

Windows Explorer có thể chạy mỗi cửa sổ Explorer trong một quá trình riêng biệt, vì vậy, nếu một cửa sổ bị treo thì nó sẽ không ảnh hưởng tới cái khác. Nghe thật hợp lý, nhưng trong thử nghiệm của chúng tôi, nó sử dụng ít nhất thêm 10MB bộ nhớ RAM cho mỗi cửa sổ Explorer bạn mở. Nếu Windows vẫn bị treo nên tìm hiểu lý do tại sao, tắt tính năng này đi và đòi lại phần bộ nhớ bị lãng phí. Click vào Tools > Folder Options > View, di chuyển xuống và chắc chắn rằng ‘Launch folder windows in a separate process’ không được chọn và bấm vào OK.

6. Giảm thiểu các ứng dụng:

Nếu bạn đang chạy một ứng dụng, chắc hẳn nó sẽ tiêu thụ RAM, nhưng có một cách để giảm bớt điều đó: giảm thiểu nó. Nếu ứng dụng không thực hiện bất kỳ việc gì (ví dụ một trình duyệt với một vài tab mở), khi nó được giảm thiểu, Windows sẽ nhận lại phần bộ nhớ dành cho nó để cung cấp cho ứng dụng khác. Vì vậy, tốt nhất là nên giảm thiểu các chương trình không hoạt động hơn là để mặc những cửa sổ của nó trên màn hình desktop của bạn.

7. Tránh các công cụ tối ưu hóa không rõ ràng:

Đừng lãng phí thời gian của bạn với các thủ thuật thiếu hiệu quả liên quan tới việc tối ưu bộ nhớ hoặc với những chương trình vô dụng chỉ làm mọi thứ tồi tệ hơn.

Một số trang web khuyên dùng chương trình tinh chỉnh Registry ‘AlwaysUnloadDLL’ được giới thiệu rằng giúp Windows giải phóng DLLs ngay sau khi chương trình sử dụng chúng được đóng. Nhưng nó không hoạt động trong XP hay Vista. Những người khác lại quả quyết rằng thiết lập khóa cho Windows XP Registry có thể kích hoạt Superfetch (một tiện ích của Windows Vista) trong Windows XP. Đó thật là chuyện hoang đường. Nhiều trang web còn giới thiệu những chương trình tối ưu RAM với nhiều lời hứa hẹn, nhưng chúng không thể khắc phục được lỗi bộ nhớ và không thể ‘giải phóng’ RAM (trong thực tế, chúng còn chiếm dụng thêm bộ nhớ).

8. Theo dõi máy tính của bạn:

Một khi bạn đã dọn dẹp máy tính, hãy khởi động lại và nhìn xem những gì đang sử dụng RAM của bạn.

Bấm Ctrl + Shift + Esc để mở Task Manager, chọn thẻ Processes, bấm View > Select Columns và chắc rằng ‘Memory (Private Working Set)’ được chọn. Bấm OK, chọn nút ‘Show processes from all users’, sau đó bấm vào tiêu đề cột ‘Memory (Private Working Set)’.

Bây giờ bạn sẽ thấy từng quá trình trên hệ thống, theo thứ tự mà ở đó chúng đang sử dụng bộ nhớ. Duyệt trong danh sách – bạn có đang chạy bất kỳ chương trình nền nào mà bạn thực sự không cần? Nếu có, hãy tắt nó đi. Nếu bạn phát hiện một tiến trình mà bạn không rõ nó là gì, hãy nhập tên của tiến trình đó lên Google để tìm hiểu thêm.

Nếu bạn thực sự muốn đi sâu vào các hoạt động của máy PC, có hai công cụ Sysinternal vô giá dành cho bạn. Autoruns sẽ hiển thị tất cả mọi thứ được tải khi Windows khởi động, trong khi Process Explorer hiển thị các chương trình đang chạy một cách rất chi tiết và cho bạn thấy những nguồn tài nguyên mà chúng đang sử dụng. Đây là những công cụ tối ưu máy tính tốt nhất hiện nay.

Lê Đình Chính (Theo Techradar), Quantrimang.com

Tăng tốc sử dụng máy tính

Tháng Mười Một 21, 2008

Tốc độ máy tính là mối quan tâm hàng đầu của những người yêu thích và sử dụng máy tính. Từ việc khởi động, sử dụng các tiện ích phần mềm, an toàn cho toàn bộ hệ thống, cho đến việc tắt máy, lúc nào cũng cần phải nhanh-tin cậy-hiệu quả. Thông qua rất nhiều giai đoạn phát triển, Windows đang ngày càng hoàn thiện và quyến rũ hơn, tuy vậy cũng còn khá nhiều vấn đề đau đầu khiến cho việc sử dụng Windows trên máy tính của bạn “không được thuận lợi cho lắm”. Chúng tôi đã chọn ra những bản sửa quan trọng nhất và những cải tiến hấp dẫn, chia chúng vào thành từng bước nhỏ để bạn có thể thực thi một cách dễ dàng và nhanh chóng. Những mẹo nhỏ này sẽ cải thiện các vấn đề liên quan đến hệ điều hành như khởi động, tắt máy và tự động bảo trì hệ thống của bạn.

Phần 1: Làm thế nào để Windows chạy nhanh hơn
Phần 2: Xử lý nhanh các vấn đề Windows

Dồn ổ đĩa trong Windows

Vấn đề: Trong một số tranh luận chính về vấn đề này, chuyên gia thường nhất chí nói rằng việc dồn ổ đĩa cứng có thể cải thiện được hiệu suất của ổ đĩa và giảm được một số vấn đề. Tuy nhiên với rất nhiều việc lặt vặt trên máy tính của bạn thì việc tìm thời điểm để dồn ổ đĩa quả thực ngày càng khó.

Cách giải quyết: Làm cho Windows có thể thực hiện việc dồn ổ đĩa, theo cùng các bước như trong phần “Tự động kiểm tra đĩa” để tạo một nhiệm vụ được lên lịch trình, nhưng khi soạn thảo dòng lệnh trong Advanced Properties, bạn hãy thay đổi nó thành cmd.exe /c defrag c: -f -v > “c:\doc\report.txt” (Các khóa chuyển đổi của bạn và đường dẫn đến file báo cáo có thể khác đôi chút).

Trong Vista, thực hiện theo các bước tương tự như trong phần “Tự động kiểm tra đĩa”, tuy nhiên thay đổi phần văn bản trong ‘Add arguments (optional)’ thành /c defrag -c -f -v -w > “c:\doc\report.txt” (Các khóa chuyển đổi và đường dẫn báo cáo của bạn có thể khác đôi chút).

Tắt Autoplay

Vấn đề: Autoplay làm việc không chỉ trên CD-ROM mà còn trên cả các ổ đĩa flash và ổ đĩa cứng mở rộng mà chúng ta kết nối đến máy tính của mình. Chắc hẳn bạn đã rất lo lắng một số mã malware nào đó đã xâm nhập được vào một trong các thiết bị đó chưa, Autoplay sẽ trao cho nó một đường dẫn vào hệ thống của mình.

Cách giải quyết: Thiết lập phiên bản Windows của bạn để vô hiệu hóa tính năng Autoplay cho tất cả các thiết bị của hệ thống. Cách nhanh nhất mà tôi biết để thực hiện kết quả này là thiết lập một chính sách nhóm cho máy tính.

Trong XP, nhấn Windows-R, đánh gpedit.msc và nhấn Enter. Trong panel cây bên trái, điều hướng tìm đến và chọn Local Computer Policy\Computer Configuration\Administrative Templates\System. Cuốn tìm trong phần panel phía bên phải và kích đúp vào Turn off Autoplay. Trong hộp thoại ‘Turn off Autoplay Properties’, kích Enabled và chọn All drives từ danh sách sổ xuống bên dưới. Kích OK.


Ngăn chặn những nguy hiểm từ việc Autoplay trên tất cả các thiết bị
thông qua Group Policy Editor

Trong Vista, nhấn Windows-R, đánh gpedit.msc, và nhấn Enter. Kích Continue khi được nhắc nhở tiếp tục bởi User Account Control. Trong panel cây bên trái, bạn điều hướng tìm đến và chọn Local Computer Policy\Computer Configuration\Administrative Templates\Windows Components\AutoPlay Policies. Kích đúp vào Turn off Autoplay. Kích EnabledOK. Tiếp đến kích đúp “Default behavior for AutoRun”.

Sử dụng phím nóng để khởi động nhanh một số chương trình

Vấn đề: Bạn thấy rằng thực hiện một số thao tác thông qua bàn phím nhanh hơn dùng chuột. Vì vậy có thể bạn cũng muốn khởi chạy các mục trong phần Quick Launch của taskbar nhanh hơn mà không cần với đến chuột.

Cách giải quyết: Trong XP, bạn có thể gán shortcut bàn phím cho các mục trên màn hình Desktop hoặc đưa vào trong menu Start. Cách sau là một giải pháp rõ ràng hơn, kích chuột phải vào nút Start và chọn Open hay Explore. Kích đúp vào thư mục Programs. Để giữ những thứ đã được sắp xếp, kích chuột phải vào cửa sổ đó và chọn New, Folder. Tên thư mục cũng cần phải giống như các shortcut bàn phím, nhấn Enter. Bây giờ kích đúp vào thư mục đó, kích chuột phải và kéo các mục từ thanh bar Quick Launch vào thư mục này một – một, chọn Copy Here. Kích chuột phải và mỗi một shortcut mới được copy và chọn Properties. Với tab Shortcut được đánh dấu, kích vào hộp ‘Shortcut key’ và nhấn các key muón sử dụng để khởi chạy chương trình, chúng phải bắt đầu với Ctrl-Alt, Ctrl-Shift, Shift-Alt, Ctrl-Shift-Alt, hoặc một key chức năng khác (F1 đến F12 trên hầu hết bàn phím). Kích OK. Nếu bạn thay đổi sau này và xóa shortcut thì cần phải đăng xuất và đăng nhập trở lại để xóa chỉ định key.

Trong Vista, hệ thống sẽ tự động gán cho các shortcut Windows-key để khởi chạy nhanh các mục dựa trên thứ tự của chúng trong toolbar. Khởi chạy mục đầu tiên bằng việc nhấn Windows-1, mục thứ hai bằng cách nhấn Windows-2, và cứ tiếp tục như vậy. Để thay đổi shortcut bàn phím cho mỗi mục, kéo nó bên trong toolbar để thay đổi thứ tự khi xuất hiện.


Thay đổi phím tắt máy tính đối với các biểu tượng trên Quick Launch
trong Vista bằng cách kéo biểu tượng vào một vị trí mới

Tắt máy nhanh

Vấn đề: Khi muốn tắt máy tính, tôi muốn thực hiện nó ngay tức thì mà không cần phải chỉ và click dài dòng.

Cách giải quyết 1: Với một số phím nhanh, bạn có thể đóng nhanh hơn rất nhiều. Đây là các cách nhanh nhất để thoát, khởi động lại và đăng xuất từ Windows.

Trong XP, nhấn Windows, U, U để shut down; Windows, R, R cho restart và Windows, L, L để đăng xuất.

Trong Vista, nhấn Windows, phím mũi tên phải 3 lần và cuối cùng là ký tự cho lệnh bạn muốn: U cho tắt máy, R cho việc khởi động lại và L để đăng xuất.

Cách giải quyết 2: Một cách tăng tốc nhanh hơn nhiều cho việc tắt máy tính của bạn là đơn giản chỉ cần nhấn nút nguồn cấp (nó làm việc có phải như TV?). Rõ ràng việc cắt nguồn như vậy cho Windows một cách ngẫu nhiên có thể làm cho bạn bị mất dữ liệu. Giải pháp ở đây là lên chương trình lại cho nút nguồn của hệ thống để thoát khỏi Windows mà không cần bất cứ nhắc nhở nào (ngoại trừ lưu công việc đã được lưu). Trong XP, mở Control Panel. Trong mục ‘Performance and Maintenance’, khởi chạy Power Options. Kích tab Advanced. Dưới “When I press the power button on my computer‘”, chọn Shut down. Sau đó kích OK.


Tắt Windows bằng cách nhấn nút nguồn trên máy tính bằng cách
chọn thiết lập này trong phần Power Options Control Panel

Trong Vista, kích nút Start, đánh vào đó power options và nhấn Enter. Trong phần bên trái, kích Choose cho nút nguồn như vậy. Bên cạnh ‘When I press the power button’ chọn Shut down. Bạn cũng có thể thiết lập mặc định tại tùy chọn Sleep, mặc định này có thể tiết kiệm thời gian của bạn khi bạn bật máy tính lên, xem phần “Giảm năng lượng và các chi phí hoạt động” để có thêm nhiều tùy chọn nguồn của Windows. Cuối cùng kích Save Changes.

Sống trong thế giới hai hệ điều hành

Không phải bất kỳ ai cũng đều chỉ sử dụng XP hoặc chỉ Vista. Giữa công việc và ở nhà, rất nhiều người phải sử dụng cả hai hệ điều hành. Một số mẹo nhỏ này sẽ giúp bạn chuyển từ một hệ điều hành này sang một hệ điều hành khác một cách dễ dàng.

Tìm kiếm nâng cao: Có lẽ sự khác nhau dễ nhận thấy nhất giữa XP và Vista là hộp tìm kiếm xuất hiện trên menu Start. Nếu bạn thích tính năng Vista mới này ở chỗ sẽ cho phép bạn khởi chạy các chương trình như tìm kiếm nhanh các file trên máy tính hoặc Web, thì bạn có thể bổ sung thêm nó vào XP bằng cách tải và cài đặt Windows Desktop Search của Microsoft cho XP. Công cụ này sẽ đặt hộp tìm kiếm trong thanh taskbar, hoặc bạn có thể mở cửa sổ chính của chương trình bằng cánh nhấn Windows-F.

Tạo tương xứng cho các menu Start: Nếu việc sử dụng hai kiểu menu Start khác nhau làm cho bạn cảm thấy khó chịu, dễ bị nhầm lẫn thì bạn có thể chuyển đổi trở lại sang kiểu menu Start của Windows 9x-style trong cả XP và Vista: Trong mỗi hệ điều hành, kích chuột phải vào nút Start và chọn Properties. Chọn Classic Start menu và kích OK. Sắp xếp các biểu tượng và menu con trong cả hai hệ thống sao cho tương xứng để bạn không bị mất quá nhiều thời gian vào việc tìm kiếm chúng khi cần thiết. Với việc sử dụng truy cập nhanh từ bàn phím, chọn “Add Custom Accelerator Keys to Your Start Menu

Chức năng Run: Nhiều người dùng Vista có thể lại muốn sử dụng hộp Run trên menu Start của XP, hộp này cung cấp một rất nhiều những lệnh mới được sử dụng gần đây. Lệnh Run vẫn có trong Vista nhưng bạn phải nhấn Windows-R để mở nó trong hệ điều hành mới này. Có một tùy chọn khác để khôi phục hộp Run trong Vista: Kích chuột phải vào nút Start, chọn Properties, kích Customize, tích chọn Run command hoặc Display Run, sau đó kích OK hai lần.

Về công cụ Defender: Vista có trong bản thân có một công cụ chống spyware, đó là Windows Defender. Nếu bạn muốn bổ sung một công cụ tương tự vào XP, hãy lấy nó từ phần mềm Windows Defender miễn phí cho XP. Lưu ý rằng để cài đặt chương trình, bạn phải chạy chương trình kiểm tra bản quyền Windows Genuine Advantage của chính Microsoft.

Cân bằng kiểm soát tài khoản: User Account Control của Vista có thể tạo rất nhiều các pop-up bực mình khi bạn làm việc, nhưng nó làm cho hệ thống an toàn hơn. Để có được sự bảo vệ an toàn như vậy đối với XP, bạn hãy đăng nhập như một người dùng chuẩn hoặc như một người dùng mạnh thay vì một quản trị viên.

Mang trở lại thanh menu: Nếu bạn gặp nhiều vấn đề khi không có thanh menu trong phiên bản Vista của Explorer và Internet Explorer, một giải pháp để giải quyết vấn đề này là nhấn phím Alt để lấy lại thanh menu và sau đó sử dụng các phím nóng để chọn lệnh bạn cần. Hoặc đưa các menu trở lại bằng việc mở Explorer và chọn Organize, Layout, Menu Bar, hoặc Tools, Menu Bar trong Internet Explorer.

Phần mềm hỗ trợ ưa thích

Đôi khi, để giải quyết công việc của mình, bạn cần đến những công cụ đặc biệt. Nếu mục đích của chúng là để lọc spam, khôi phụ dữ liệu hay để thực hiện các nhiệm vụ quản lý khác thì các tiện ích này sẽ làm Windows trở thành một hệ điều hành tốt hơn rất nhiều và chúng không hề tốn kém đến một hào.

Cô lập spam: SpamBayes, một chương trình đi kèm với Outlook, Outlook Express và chương trình email máy khách POP3 khác. Nó sử dụng một thuật toán thống kê để có thể biết về những bạn xem xét với spam, cải thiện việc lọc của nó để sử dụng tốt hơn. Bạn có thể điều chỉnh nó cho phân loại mail vào các thư mục ‘spam’ và ‘không phải spam’, hoặc cho nó xem xét với tư cách bạn sửa hoặc xác nhận các phỏng đoán của nó.

Các vấn đề về shutdown: Windows cung cấp rất thuận tiện một nhóm Startup để bạn có thể chạy các ứng dụng một cách tự động mỗi khi đăng nhập. Tuy nhiên tại sao không bổ sung thêm chạy những chương trình bất cứ khi nào bạn đăng xuất? Ví dụ, bạn có thể thiết lập nó để thực hiện backup các file đã làm việc trong ngày hoặc quét virus. LastChance cho phép bạn có thể thực hiện như vậy. Chương trình này sẽ chặn lệnh shutdown và chạy các ứng dụng đã được chọn trước khi tắt máy. Bạn cũng có thể thiết lập một tiện ích để chạy các chương trình khi một tài nguyên (như một drive mạng) có sẵn và lập lịch trình shutdown có thể xuất hiện một cách tự động.

Khôi phục các file đã xóa: Nếu bạn hay xóa trắng thùng rác Recycle Bin hoặc thường xóa các file bằng phím Shift-Delete như một thói quen, thì Restoration có thể cứu được bạn lúc này. Chỉ định vị trí thư mục hoặc chỉ dẫn cho chương trình để tìm kiếm trên toàn ổ đĩa, Restoration sẽ thực hiện hết khả năng của nó để khôi phục dữ liệu đã mất của bạn. Chương trình này không cần bộ cài đặt, nó quá nhỏ đến nỗi bạn có thể lấy nó từ một đĩa mềm, ổ flash hoặc các thiết bị di động khác.

Đặt lại tên file nhanh: Hầu như mọi người đều có một bộ sưu tập lớn ảnh số và các file âm nhạc trong ổ cứng của họ. Việc đặt lại tên tất cả các file này cho việc tổ chức file dễ dàng và nhận ra nhanh chóng hơn là không thể. Tuy nhiên Lupas Rename 2000 sẽ giúp bạn quản lý những việc lặt vặt như vậy một cách dễ dàng. Nó có thể thay thế văn bản, cắt phần đầu, cuối hoặc bất cứ vị trí nào; và tự động đánh số file tự động. Panel xem trước của chương trình này sẽ cho phép bạn xác nhận rằng có thiết lập gì mà bạn muốn trước khi liên quan đến những thay đổi này không.

Quản lý các mật khẩu: Việc kiểm tra mật khẩu trên các website mà bạn đã vào không dễ dàng chút nào vì chúng ngày một tăng mà bạn thì ngày một già đi. Cơ sở dữ liệu mã nguồn mở KeePass Password Safe sẽ lưu các mật khẩu của bạn trong một cơ sở dữ liệu được mã hóa chặt chẽ. Tất cả những gì bạn phải thực hiện là nhớ mật khẩu chính để mở tất cả chúng. Nó không thuận tiện như việc sử dụng tên con vật cưng của bạn, nhưng nó sẽ cho phép bạn an toàn hơn. Lệnh Auto-Type sẽ giúp bạn nhập vào các tên và mật khẩu của tài khoản .

Quan sát những thay đổi của hệ thống: Lưu ý đến WinPatrol 2007 về khả năng bảo vệ của nó đối với hệ thống của bạn với những thay đổi không chứng thực, gồm có các chương trình khởi động mới, trang chủ trình duyệt bị thay đổi, các thay đổi đối với kiểu file, các file ẩn mới và nhiều hơn thế nữa.

Văn Linh (Theo PC World)